Lợi dụng vấn đề dân tộc để chống phá đất nước
Trong chiến lược diễn biến hòa bình nhằm hiện thực hóa âm mưu chống, phá Đảng, Nhà nước Việt Nam, một trong những thủ đoạn thâm hiểm được các thế lực thù địch, phản động sử dụng triệt để trong những năm qua là lợi dụng nguyên tắc “quyền dân tộc tự quyết” để lôi kéo, kích động đồng bào dân tộc thiểu số ly khai, đòi quyền tự trị, hòng chia rẽ khối đại đoàn kết dân tộc gây bất ổn chính trị – xã hội, xóa bỏ vai trò lãnh đạo của Đảng và chế độ xã hội chủ nghĩa ở nước ta.
ĐÁNH TRÁO KHÁI NIỆM – MỘT THỦ ĐOẠN THÂM ĐỘC
Thời gian gần đây, lợi dụng sự nhẹ dạ, thiếu hiểu biết của một bộ phận người dân tộc thiểu số thuộc khu vực miền núi, vùng sâu vùng xa, vùng biên giới, hải đảo đời sống gặp nhiều khó khăn, các đối tượng xấu đã mua chuộc, dụ dỗ họ tham gia vào nhiều hoạt động phi pháp núp bóng tôn giáo, hoặc các hội nhóm mang danh “xã hội dân sự” đấu tranh “vì quyền lợi cho các dân tộc ít người”.
Thực chất, thông qua các hoạt động này, những phần tử chống phá nhen nhóm tư tưởng ly khai trong cộng đồng dân tộc thiểu số, kích động người dân đòi quyền dân tộc tự quyết, lập nên nhà nước riêng, gây mất an ninh trật tự trên địa bàn, đe dọa gây ra những hậu quả khó lường.
Như ở khu vực miền núi phía Bắc, sự xuất hiện của tà đạo Giê Sùa và Bà cô Dợ đã gây ra những bất ổn trong đời sống dân cư, đặc biệt là vấn đề an ninh, trật tự. Dù đã được chính quyền cùng các cơ quan chức năng cảnh báo, vận động, thuyết phục song không ít người dân vẫn bị dụ dỗ, mê muội tin theo các tà đạo. Tà đạo Giê Sùa (còn được gọi là “Hội thánh Giê Sùa”) chỉ mới xuất hiện chưa đến 10 năm song với nhiều thủ đoạn tiếp cận tinh vi nhằm thuyết phục, mua chuộc người dân nên đã nhanh chóng lan ra một số tỉnh, thành phố, như: Điện Biên, Lai Châu, Sơn La, Lào Cai, Yên Bái. Người sáng lập ra “Hội thánh Giê Sùa” là Hờ Chá Sùng (còn gọi là David Her), người H’Mông, gốc Lào đang sống tại bang California, Mỹ.
Hờ Chá Sùng đã tận dụng “mác” người H’Mông để chiếm cảm tình cũng như lòng tin của một số bà con dân tộc thiểu số.
Bất chấp việc không có giáo lý, giáo luật, hiến chương, “Hội thánh Giê Sùa” tuyên truyền tà đạo chỉ dựa vào những câu chữ được cóp nhặt, vay mượn từ Kinh thánh và một số tài liệu do Hờ Chá Sùng tự soạn thảo. Mặt khác, Hờ Chá Sùng tán phát các tài liệu tuyên truyền tà đạo trên mạng internet, thông qua kênh YouTube và trang thông tin điện tử phản động bằng tiếng H’Mông.
Không chỉ bác bỏ và xuyên tạc các tôn giáo chính thống, Hờ Chá Sùng còn tự tin cho rằng “Hội thánh Giê Sùa” là tôn giáo chính thống của người H’Mông, đồng thời phong cho mình làm “Vua của dân tộc H’Mông”, ai tin tưởng đi theo thì có được đất nước riêng của người H’Mông, cuộc sống sẽ ấm no, hạnh phúc. Qua quá trình hoạt động, Hờ Chá Sùng đã bộc lộ mưu đồ thật sự của mình từ việc lập ra một tổ chức tôn giáo bất hợp pháp là nhằm kích động, kêu gọi người H’Mông, thành lập “nhà nước H’Mông” tự trị với lý lẽ sai trái rằng, đó là thực hành quyền dân tộc tự quyết.
Nhằm thực hiện âm mưu “phá từ trong phá ra”, các thế lực thù địch cố tình xuyên tạc quyền dân tộc tự quyết nhằm chia rẽ cộng đồng người dân tộc thiểu số với người Kinh, làm cho nội bộ đất nước rối ren, khối đại đoàn kết dân tộc bị suy yếu. Thực tiễn cho thấy không chỉ ở địa bàn Tây Bắc mà tại một số địa phương khu vực Tây Nguyên và Tây Nam Bộ, diễn biến của vấn đề này cũng hết sức phức tạp. Các đối tượng phản động ở hải ngoại tăng cường cấu kết với các phần tử chống phá ở trong nước, sẵn sàng cung cấp tiền bạc, tài liệu,… phục vụ cho việc “xây dựng lực lượng”, tuyên truyền, dụ dỗ, kích động một số người dân thiếu thông tin hoặc nhẹ dạ, cả tin đứng lên đòi hỏi “xác lập vị thế, quyền dân tộc”.
Nổi cộm tại khu vực Tây Nguyên thời gian qua, các đối tượng phản động trong nước và nước ngoài cấu kết với nhau, hô hào kêu gọi thành lập cái gọi là “Nhà nước Tin lành Đê ga độc lập”. Mục đích của chúng là nhằm ly khai khu vực Tây Nguyên nằm ngoài sự kiểm soát của chính quyền, chia cắt sự toàn vẹn và thống nhất của đất nước cũng như cộng đồng các dân tộc Việt Nam trên dải đất hình chữ S, thực hiện âm mưu lật đổ chính quyền, làm chệch hướng con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam.
Cái gọi là “Nhà nước Tin lành Đê ga độc lập” thực chất là một tổ chức “ma” mà những kẻ theo FULRO (Mặt trận thống nhất đấu tranh của các dân tộc bị áp bức) lập ra vào cuối năm 1999, do Ksor Kơk cầm đầu. Để thực hiện mưu đồ đen tối, Ksor Kơk xuyên tạc rằng “mỗi dân tộc phải có một lãnh thổ riêng, có phong tục tập quán riêng, đất của người Thượng phải do người Thượng quản lý, sử dụng”. Nhằm chiếm được lòng tin và thao túng tâm lý của người dân, chúng đẩy mạnh phương thức tuyên truyền qua tôn giáo.
Giữa năm 2000, Ksor Kơk từ Mỹ đã chỉ đạo một số tín đồ Tin lành người dân tộc thiểu số mà y đã tuyển mộ từ trước đó lên tiếng đòi tự do tôn giáo, tách Tin lành người Thượng ra khỏi Hội thánh Tin lành Việt Nam, lập nên tà đạo “Hội thánh Tin lành Đê ga” làm hậu thuẫn cho “Nhà nước Đê ga độc lập”.
Dù mang danh nghĩa là tổ chức tôn giáo, song “Hội thánh Tin lành Đê ga” đẩy mạnh các hoạt động mang màu sắc chính trị như việc xuyên tạc chính sách của Đảng và Nhà nước ta trong lĩnh vực tôn giáo, dân tộc. Các đối tượng kích động các tín đồ Tin lành đuổi người Kinh về xuôi với lý lẽ là “đòi lại đất đai cho người Thượng”, xây dựng cơ sở tôn giáo trái phép, tiến hành các hoạt động tôn giáo bất hợp pháp, kêu gọi thành lập “Nhà nước Tin lành Đê ga độc lập”…
Để thực hiện mưu đồ đen tối của mình, các đối tượng chống phá thường xuyên vu cáo chính quyền đàn áp tôn giáo, phân biệt đối xử với người dân tộc thiểu số, kích động, chia rẽ khối đại đoàn kết dân tộc, kêu gọi sự can thiệp của các tổ chức, cá nhân phản động, thiếu thiện chí ở nước ngoài.
Trong các năm 2001, 2004, 2008 ở Tây Nguyên, “Hội thánh Tin lành Đê ga” dưới sự giật dây, chỉ đạo, hậu thuẫn của các thế lực thù địch từ hải ngoại đã kích động người dân gây ra các vụ bạo loạn khiến dư luận vô cùng phẫn nộ. Gần đây vụ tấn công liều lĩnh, manh động vào trụ sở Ủy ban nhân dân hai xã Ea Tiêu và Ea Ktur thuộc huyện Cư Kuin, tỉnh Đắk Lắk rạng sáng 11/6/2023 làm 9 người chết, được đánh giá là hoạt động khủng bố chống chính quyền với sự tiếp tay, chỉ đạo từ nước ngoài.
Tại khu vực Tây Nam Bộ, sự chống phá, can thiệp của các tổ chức phản động ở nước ngoài cũng lộ rõ. Biểu hiện rõ nhất là tại một số diễn đàn quốc tế, những năm qua, Tổ chức “Liên đoàn Khmer Kampuchea Krom” (Mỹ) luôn tìm mọi cách tiếp cận các chính trị gia các nước để vu cáo, cung cấp thông tin thất thiệt, sai sự thật về vấn đề tự do tôn giáo, dân chủ, nhân quyền ở Việt Nam, bịa đặt về tình hình người Khmer ở Việt Nam.
Tại “Diễn đàn thường trực Liên hợp quốc về các vấn đề dân tộc bản địa (UNPFII) lần thứ 14”, “Diễn đàn nhân dân ASEAN 2015”, tổ chức này còn yêu cầu Việt Nam, Campuchia chấm dứt phân biệt đối xử với người “Khmer Krom”; đề nghị Liên hợp quốc, các tổ chức quốc tế và các nước thành viên ASEAN can thiệp; yêu cầu thành lập Văn phòng nhân quyền bảo vệ quyền lợi cho người “Khmer Krom” tại Việt Nam…
Thời gian qua, các cơ quan chức năng đã phát hiện một số đối tượng cộm cán từ bên ngoài thường xuyên tác động, chỉ đạo, tài trợ, hướng dẫn các phần tử cực đoan sống tại địa phương thu thập tin tức bí mật chuyển ra ngoài, đồng thời lợi dụng các vụ việc phức tạp, nhạy cảm để xuyên tạc, vu cáo chính quyền đàn áp tôn giáo, dân tộc thiểu số, kích động quần chúng gây rối, biểu tình đòi ly khai, tự trị.
Cơ quan chức năng cũng đã phát hiện, thu giữ hàng nghìn tài liệu có nội dung xuyên tạc lịch sử vùng đất Nam Bộ, cho rằng, đất Nam Bộ là của người “Khmer Krom” bị Việt Nam xâm chiếm, dựng lên cái gọi là “lễ kỷ niệm ngày mất đất”. Mặt khác, các đối tượng chống phá còn sử dụng Tuyên ngôn về quyền của người bản địa của Liên hợp quốc, để xuyên tạc chính sách dân tộc của Đảng, Nhà nước ta đối với dân tộc Khmer.
Mới đây, vào tháng 7/2023, lợi dụng việc cổng chào của tỉnh Trà Vinh phải phá dỡ do bị hư hỏng nặng, có thể gây nguy hiểm cho người dân, các đối tượng chống phá lập tức rêu rao rằng “cổng chào của tỉnh Trà Vinh (cũ) là của dân tộc Khmer, có kiến trúc văn hóa của cha ông để lại”, từ đó xuyên tạc việc tháo dỡ cổng chào là “chính quyền người Việt muốn xóa bỏ văn hóa của người Khmer, muốn thực hiện chính sách đồng hóa dân tộc Khmer”.
Diễn biến của tình hình cho thấy mức độ nguy hiểm, phức tạp, khó lường của mưu đồ thực hiện diễn biến hòa bình dưới chiêu bài quyền dân tộc tự quyết trong tình hình hiện nay.
Dù được thực hiện với nhiều hình thức, thủ đoạn khác nhau song có thể nhận diện những điểm chung là: Các đối tượng chống phá triệt để lợi dụng các vấn đề về nguồn gốc lịch sử tộc người, đất đai, lợi dụng những hạn chế, thiếu sót trong công tác lãnh đạo, chỉ đạo của các cấp, ngành trong việc triển khai chính sách dân tộc để kích động tư tưởng ly khai, tâm lý mặc cảm, kỳ thị dân tộc.
Cùng với đó, các đối tượng chống phá tiếp tục lợi dụng chiêu bài “tôn giáo hóa dân tộc”, gây ảnh hưởng, tập hợp lực lượng là người dân tộc thiểu số, tiến tới hình thành tổ chức phản động trên địa bàn.
Nguy hiểm hơn, các thế lực phản động tìm cách đánh tráo và đồng nhất khái niệm “quyền dân tộc tự quyết” là quyền của quốc gia-dân tộc với quyền của các dân tộc thiểu số để dẫn dụ, kích động, lôi kéo người dân đòi thành lập nhà nước riêng, phá hoại khối đại đoàn kết dân tộc. Thực tế này đòi hỏi chúng ta phải luôn luôn cảnh giác, tỉnh táo nhận diện những chiêu trò chống phá của các thế lực thù địch thực hiện dưới danh nghĩa quyền dân tộc tự quyết để có những biện pháp đấu tranh, ngăn chặn hiệu quả.
CẦN HIỂU ĐÚNG VỀ QUYỀN DÂN TỘC TỰ QUYẾT
Thời gian qua, các thế lực thù địch không ngừng xuyên tạc chính sách tôn giáo, dân tộc của Việt Nam, cố tình đánh tráo khái niệm nhằm đồng nhất “quyền dân tộc tự quyết” với “quyền dân tộc thiểu số” để chống phá Đảng, Nhà nước cũng như khối đại đoàn kết dân tộc. Thực tế này đòi hỏi mỗi người dân cần nhận thức và thực hành đúng đắn quyền dân tộc tự quyết nhằm bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, công dân, góp phần giữ gìn trật tự, an toàn xã hội. |
Mặc dù có liên hệ mật thiết với nhau song “quyền dân tộc tự quyết” và “quyền dân tộc thiểu số” là hai quyền khác nhau. Theo Hiến chương Liên hợp quốc và luật pháp quốc tế “quyền dân tộc tự quyết” là quyền của các quốc gia – dân tộc trong việc thiết lập chế độ chính trị, thúc đẩy sự phát triển kinh tế – chính trị – văn hóa – xã hội theo con đường mình lựa chọn trên cơ sở thiết lập chủ quyền quốc gia. Một trong những mục đích, tôn chỉ hoạt động được Liên hợp quốc khẳng định tại Điều 1, Hiến chương Liên hợp quốc đó là: “Phát triển mối quan hệ hữu nghị giữa các dân tộc trên cơ sở tôn trọng nguyên tắc bình đẳng và tự quyết của các dân tộc và áp dụng những biện pháp phù hợp khác để củng cố hòa bình thế giới”.
Năm 1966, lần đầu tiên “quyền dân tộc tự quyết” được ghi nhận trong các công ước quốc tế, đó là Công ước về các Quyền Dân sự và Chính trị, Công ước về các Quyền Kinh tế, Xã hội và Văn hóa. Đặc biệt tại Tuyên bố về những nguyên tắc của Luật quốc tế điều chỉnh quan hệ hữu nghị và hợp tác giữa các quốc gia phù hợp với Hiến chương Liên hợp quốc được Đại hội đồng Liên hợp quốc thông qua tại Nghị quyết 2625 (XXV) năm 1970 đã chỉ rõ nội hàm của “quyền dân tộc tự quyết” (hay còn gọi là nguyên tắc tự quyết của các dân tộc) với các điểm mấu chốt như sau:
Một là “tất cả các dân tộc có quyền tự do quyết định chế độ chính trị và theo đuổi sự phát triển về kinh tế, xã hội và văn hóa của mình mà không có bất kỳ sự can thiệp nào từ bên ngoài”.
Hai là “việc thành lập một quốc gia độc lập có chủ quyền, sự tự do liên kết hoặc hợp nhất với một quốc gia độc lập hoặc dưới bất kỳ quy chế chính trị nào do một dân tộc tự do quyết định sẽ chính là các cách thức thực hiện quyền tự quyết của dân tộc ấy”.
Ba là “không một điều nào được nói đến ở trên sẽ được hiểu là trao quyền hoặc khuyến khích bất kỳ hành động nào dẫn đến việc chia cắt, làm suy yếu toàn bộ hoặc một phần sự toàn vẹn lãnh thổ hoặc sự thống nhất về chính trị của một quốc gia độc lập có chủ quyền thực hiện phù hợp với nguyên tắc về quyền bình đẳng và quyền tự quyết của các dân tộc được đề cập đến ở trên, và do đó có một chính quyền đại diện cho toàn thể nhân dân sống trên lãnh thổ đó mà không có sự phân biệt về màu da, tín ngưỡng hoặc chủng tộc”…
Liên quan “quyền dân tộc thiểu số”, tại Tuyên ngôn quốc tế nhân quyền của Đại hội đồng bảo an Liên hợp quốc năm 1948 khẳng định rõ: “Mọi người sinh ra tự do và bình đẳng về phẩm cách và quyền lợi, có lý trí và lương tri, và phải đối xử với nhau trong tình bác ái” (Điều 1) và “Ai cũng được hưởng những quyền tự do ghi trong bản Tuyên ngôn này không phân biệt đối xử vì bất cứ lý do nào, như chủng tộc, màu da, nam nữ, ngôn ngữ, tôn giáo, chính kiến hay quan niệm, nguồn gốc dân tộc hay xã hội, tài sản, dòng dõi hay bất cứ thân trạng nào khác” (Điều 2).
Đồng thời tại Công ước về các Quyền Dân sự và Chính trị năm 1966 quy định những người thuộc dân tộc thiểu số ở bất kỳ quốc gia – dân tộc nào cũng có đầy đủ các quyền về dân sự, chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội như những người thuộc dân tộc đa số ở chính các quốc gia-dân tộc đó, không được có bất kỳ sự phân biệt đối xử nào.
Như vậy, có thể khẳng định “quyền dân tộc tự quyết” và “quyền dân tộc thiểu số” là hai quyền khác nhau, liên quan các đối tượng khác nhau. Khi đề cập về “quyền dân tộc tự quyết” là muốn nói đến quyền lợi của một quốc gia – dân tộc so với các quốc gia – dân tộc khác trên thế giới.
Cụ thể, khi một quốc gia có nguy cơ bị các quốc gia khác xâm hại hoặc cản trở việc thực hiện quyền này thì toàn thể các dân tộc tại quốc gia đó phải đoàn kết, kiên quyết, kiên trì đấu tranh không khoan nhượng để bảo vệ “quyền dân tộc tự quyết” của mình. Còn khi đề cập “quyền dân tộc thiểu số” là nói đến quyền lợi của các dân tộc thiểu số trong nội bộ của một quốc gia độc lập, thống nhất. Theo đó, các quốc gia phải có trách nhiệm bảo đảm cho các dân tộc thiểu số sinh sống tại quốc gia mình được hưởng đầy đủ các quyền “dân tộc thiểu số” phù hợp điều kiện, hoàn cảnh, luật pháp của quốc gia.
Tuy nhiên, lợi dụng thực tế Việt Nam là một quốc gia đa dân tộc (trong đó dân tộc Kinh chiếm khoảng 87% dân số, còn lại là dân tộc thiểu số gồm 53 dân tộc chiếm 13% dân số), cùng với đó là sự nhận thức chưa đầy đủ về “quyền dân tộc tự quyết” của nhiều người dân, nhất là đồng bào dân tộc thiểu số ở vùng sâu, vùng xa, kinh tế-xã hội còn kém phát triển và trình độ dân trí chưa cao, các thế lực thù địch, phản động đã tìm cách đánh tráo nhằm đồng nhất hai khái niệm “quyền dân tộc tự quyết” và “quyền dân tộc thiểu số”. Mục đích mà chúng muốn hướng đến là chia rẽ khối đại đoàn kết dân tộc, kích động đồng bào dân tộc thiểu số thực hiện “quyền dân tộc tự quyết” bằng cách ly khai, bạo loạn, đòi quyền tự trị, tự quản với nhiều thủ đoạn tinh vi, thâm độc.
Những năm qua, dưới sự lãnh đạo của Đảng, Nhà nước cùng những chủ trương, chính sách đúng đắn, đời sống của người dân, nhất là vùng đồng bào dân tộc thiểu số ngày càng được cải thiện về mọi mặt, theo đúng phương châm mà Văn kiện Đại hội XIII của Đảng đã chỉ rõ: “Bảo đảm các dân tộc bình đẳng, đoàn kết, tôn trọng, giúp nhau cùng phát triển. Huy động, phân bổ, sử dụng, quản lý hiệu quả các nguồn lực để đầu tư phát triển, tạo chuyển biến căn bản về kinh tế, văn hóa, xã hội ở vùng có đông đồng bào dân tộc thiểu số… Có cơ chế thúc đẩy tính tích cực, ý chí tự lực, tự cường của đồng bào dân tộc thiểu số phát triển kinh tế – xã hội, thực hiện giảm nghèo đa chiều, bền vững”.
Tuy nhiên, bên cạnh những thành tựu đạt được, trên thực tế tại một số địa phương việc giải quyết vấn đề dân tộc vẫn còn những hạn chế, thiếu sót nhất định với các biểu hiện: Việc tổ chức thực hiện các chủ trương, chính sách, pháp luật của Đảng, Nhà nước ở một số địa phương còn yếu kém; công tác quản lý xã hội còn nhiều sơ hở, chưa gần dân, sát dân, chưa kịp thời nắm bắt và giải quyết tâm tư nguyện vọng của đồng bào dân tộc thiểu số, nhất là ở vùng sâu, vùng xa, vùng biên giới, hải đảo; chậm phát hiện và xử lý các vụ việc phức tạp trên địa bàn…
Lợi dụng những hạn chế này, các thế lực thù địch, phản động đã phủ nhận toàn bộ những thành tựu to lớn của Việt Nam trong thực hiện chính sách dân tộc, vu cáo Đảng và Nhà nước Việt Nam vi phạm dân chủ, nhân quyền, phân biệt đối xử, đàn áp đồng bào dân tộc thiểu số, ép người đồng bào dân tộc thiểu số phải “bỏ đạo, bỏ văn hóa truyền thống” để hòa nhập với “cuộc sống văn minh, tiến bộ” của người Kinh; tuyên truyền sai lệch về quyền dân tộc tự quyết để chia rẽ khối đại đoàn kết dân tộc, chống phá chế độ, từ đó từng bước làm chệch hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam.
Để phát hiện và ngăn chặn có hiệu quả những thủ đoạn lợi dụng quyền dân tộc tự quyết để chống phá đất nước, các cấp chính quyền, cơ quan chức năng và các tổ chức đoàn thể cần triển khai thực hiện đồng bộ một số giải pháp sau: Trước hết phải tăng cường giáo dục, tuyên truyền để cho các tầng lớp nhân dân, nhất là những người đồng bào dân tộc thiểu số nâng cao cảnh giác, hiểu đúng, hiểu rõ và thực hành đúng “quyền dân tộc tự quyết” theo tinh thần của Hiến chương Liên hợp quốc, luật pháp quốc tế cũng như luật pháp Việt Nam. Khi người dân đã hiểu đúng về “quyền dân tộc tự quyết” thì sẽ không còn cơ hội cho các thế lực thù địch, phản động lợi dụng chống phá.
Các cơ quan chức năng cần tăng cường kiểm tra, giám sát để kịp thời phát hiện và xử lý có hiệu quả các cá nhân, tổ chức trong và ngoài nước lợi dụng thực hành tín ngưỡng, tôn giáo, cũng như các hoạt động “từ thiện”, “nhân đạo” trá hình để tuyên truyền sai lệch về vấn đề thực hiện “quyền dân tộc tự quyết” từ đó mua chuộc, vận động, thậm chí ép buộc người đồng bào dân tộc thiểu số có những hành vi gây rối, bạo loạn, đòi ly khai, tự trị. Tiếp tục làm tốt hơn nữa công tác nắm bắt tâm tư, nguyện vọng, đòi hòi chính đáng và giải quyết kịp thời những mâu thuẫn, bức xúc của đồng bào dân tộc thiểu số, góp phần củng cố niềm tin của họ với Đảng, Nhà nước.
Song song đó, phải tiếp tục hoàn thiện đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước về vấn đề dân tộc và tổ chức thực hiện hiệu quả các chủ trương, chính sách này góp phần bảo đảm các quyền, lợi ích chính đáng của đồng bào dân tộc thiểu số được thực hiện một cách đầy đủ, trên nguyên tắc các dân tộc thật sự bình đẳng, đề cao tinh thần thống nhất và khối đại đoàn kết dân tộc, tôn trọng những điểm khác biệt của các dân tộc về văn hóa, phong tục, tập quán, tôn giáo, tín ngưỡng…
Đồng thời, cần tăng cường thực hiện hiệu quả các chương trình, dự án phát triển kinh tế – xã hội, xóa đói, giảm nghèo đa chiều bền vững ở các vùng đồng bào dân tộc thiểu số, nhất là ở vùng sâu, vùng xa, vùng biên giới, hải đảo còn đặc biệt khó khăn. Chỉ khi đời sống vật chất và tinh thần của đồng bào dân tộc thiểu số không ngừng được cải thiện và nâng cao về mọi mặt, thu hẹp và tiến tới xóa bỏ khoảng cách chênh lệch giàu nghèo giữa người miền xuôi và người miền núi, giữa đồng bào dân tộc thiểu số với đồng bào Kinh thì mới thúc đẩy sự phát triển bền vững, tiến bộ của xã hội, giải quyết triệt để, hiệu quả nhiệm vụ đấu tranh, ngăn chặn âm mưu chống phá của các thế lực phản động, thù địch./.
Sưu tầm