Đại hội XIII của Đảng Cộng sản Việt Nam thành công tốt đẹp là dấu son trong lịch sử vẻ vang của Đảng ta, dân tộc ta. Đại hội lần đầu tiên đề cập đến chủ trương “khơi dậy khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc”, thể hiện sự phát triển về tư duy lý luận của Đảng. Cụm từ này xuất hiện đậm đặc trong chủ đề của Đại hội; quan điểm chỉ đạo tiếp tục thực hiện đường lối đổi mới của Đảng; mục tiêu tổng quát, nhiệm vụ trọng tâm, đột phá chiến lược trong nhiệm kỳ Đại hội XIII của Đảng; quan điểm phát triển, mục tiêu chiến lược, đột phá chiến lược giai đoạn 2021 – 2030… Đây là một điểm mới, điểm nhấn quan trọng về sức mạnh nội sinh và phương thức phát triển đất nước trong giai đoạn mới. Do vậy, không thế lực nào có thể xuyên tạc, phủ nhận chủ trương “khơi dậy khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc” của Đảng và dân tộc ta. Bảo vệ, khẳng định, lan toả và hiện thực hoá chủ trương này là vấn đề vừa có ý nghĩa cơ bản, lâu dài, vừa có ý nghĩa cấp thiết hiện nay.
Nhận diện các luận điệu xuyên tạc, phủ nhận chủ trương “khơi dậy khát vọng phát triển đất nước” của Đảng Cộng sản Việt Nam
Chủ trương “khơi dậy khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc” của Đại hội XIII thể hiện tầm nhìn chiến lược và quyết tâm chính trị rất cao của Đảng ta với mục tiêu đến năm 2045, Việt Nam trở thành nước phát triển, thu nhập cao. Tuy nhiên, các phần tử cơ hội chính trị, phản động, các thế lực thù địch vẫn ra sức xuyên tạc, bóp méo, phủ nhận chủ trương quan trọng này của Đảng ta. Chúng cho rằng: đó là một “khẩu hiệu trống rỗng”, “nặng tính duy tâm, siêu hình”. Chúng lý sự rằng, “khát vọng” là yếu tố tinh thần; trong khi Đảng Cộng sản Việt Nam nhiều lần đề cập và nhấn mạnh đến thành tố “khơi dậy khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc” trong Văn kiện Đại hội XIII thì Đảng Cộng sản Việt Nam đã tuyệt đối hóa yếu tố tinh thần cho sự phát triển kinh tế – xã hội đất nước, nên đây là một quan điểm duy tâm, siêu hình; đi ngược lại lý luận của chủ nghĩa duy vật lịch sử. Chúng cũng “gào lên” cho chủ trương đó là “phi thực tế, phản khoa học”, là biểu hiện “chủ quan, nóng vội, duy ý chí” của Đảng độc quyền. Chúng còn mạnh miệng bảo rằng chủ trương đó chỉ là “ảo vọng viển vông, hão huyền”, “không có tính khả thi”; Đảng Cộng sản Việt Nam chỉ “đánh trống bỏ dùi”, không có kế hoạch và biện pháp triển khai cụ thể, hữu hiệu…
Trong khi đó, từ đầu nhiệm kỳ Đại hội XIII đến nay, tình hình thế giới biến động rất nhanh, phức tạp, chưa có tiền lệ. Cạnh tranh chiến lược giữa các nước lớn ngày càng gay gắt; xung đột quân sự Nga – Ukraine kéo dài; lạm phát tăng cao, hậu quả của đại dịch Covid-19 dẫn đến suy giảm tăng trưởng kinh tế toàn cầu; rủi ro tài chính, tiền tệ, mất an ninh năng lượng, an ninh lương thực đang hiện hữu… Ở trong nước, nhiều vấn đề tồn đọng kéo dài cần được giải quyết; trong khi đó, dịch bệnh, thiên tai diễn biến phức tạp, gây nhiều thiệt hại cho sản xuất kinh doanh và đời sống của nhân dân.
Lợi dụng tình hình đó, các thế lực thù địch càng điên cuồng chống phá chủ trương “khơi dậy khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc” của Đảng ta. Chúng lớn tiếng cho rằng, chủ trương này chỉ là “cái bánh vẽ”, không thể thành hiện thực… hòng đánh lạc hướng, làm suy giảm niềm tin của nhân dân ta; kích thích tâm lý bi quan, mơ hồ, chán chường của một bộ phận người dân; kìm hãm sự phát triển kinh tế – xã hội và hạ thấp uy tín của Đảng trước nhân dân, uy tín của nước ta trên trường quốc tế.
Luận cứ phản bác các luận điệu xuyên tạc, phủ nhận chủ trương “khơi dậy khát vọng phát triển đất nước” của Đảng Cộng sản Việt Nam
Trước những luận điệu xuyên tạc, phủ nhận chủ trương “khơi dậy khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc”, mỗi cán bộ, đảng viên, nhân dân cần tỉnh táo, cảnh giác cao và nhận rõ đó là những âm mưu, thủ đoạn nham hiểm, thâm độc, hòng chống phá vai trò lãnh đạo của Đảng, làm nhụt chí quyết tâm của toàn dân tộc trên con đường phát triển giàu mạnh, phồn vinh. Chúng ta khẳng định: chủ trương “khơi dậy khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc” của Đảng ta là đúng đắn, khoa học, khả thi với những luận cứ xác đáng, thuyết phục.
Thứ nhất, khát vọng phát triển đất nước có vị trí, vai trò, tầm quan trọng đặc biệt
Các nhà kinh điển mác – xít đã khẳng định: vật chất có trước, ý thức có sau; vật chất quyết định ý thức song ý thức có tính độc lập tương đối với vật chất, có tính năng động, sáng tạo nên tác động trở lại vật chất, góp phần cải biến thế giới khách quan. C.Mác cho rằng: “Vũ khí của sự phê phán cố nhiên không thể thay thế được sự phê phán của vũ khí, lực lượng vật chất chỉ có thể bị đánh đổ bằng lực lượng vật chất; nhưng lý luận cũng sẽ trở thành lực lượng vật chất, một khi nó thâm nhập vào quần chúng”[1]. V.I. Lênin chỉ rõ: “Ý thức con người không phải chỉ phản ánh thế giới khách quan, mà còn tạo ra thế giới khách quan”[2]. Đặc biệt, ý thức, tư tưởng hay tinh thần tiến bộ, khoa học, cách mạng một khi được giáo dục, khơi dậy và phát huy đúng cách ở mỗi cá nhân sẽ trở thành sức mạnh to lớn trong cải tạo xã hội. Để hiện thực hóa sức mạnh ấy, đòi hỏi phải tiến hành công tác tuyên truyền, vận động, giáo dục, thuyết phục, giác ngộ và tổ chức cho quần chúng tham gia các phong trào cách mạng, các hoạt động xã hội. Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: “Tinh thần yêu nước cũng như các thứ của quý… Bổn phận của chúng ta là… phải ra sức giải thích, tuyên truyền, tổ chức, lãnh đạo, làm cho tinh thần yêu nước của tất cả mọi người đều được thực hành vào công việc yêu nước, công việc kháng chiến”[3].
Thực tiễn lịch sử xã hội loài người chứng minh, sự hình thành, phát triển của mỗi quốc gia – dân tộc phụ thuộc trước hết vào khát vọng sống, tồn tại và vươn lên của cộng đồng dân tộc đó. Lúc thuận lợi cũng như khi khó khăn, sức mạnh của tinh thần, của ý chí, nhất là ý chí của cả một dân tộc giữ vai trò hết sức quan trọng, thậm chí là quyết định. Khát vọng phát triển của một dân tộc là nguồn năng lượng nội sinh to lớn và sức mạnh vô địch; là động lực trung tâm của một quốc gia – dân tộc trên con đường đi tới tương lai. Sự phát triển “kỳ diệu” của một số quốc gia hùng mạnh trong tiến trình lịch sử nhân loại đều bắt nguồn chính từ những khát vọng vươn lên hùng cường như Mông Cổ trong thế kỷ XIII; Anh trong thế kỷ XIX; Mỹ, Nhật Bản, Hàn Quốc, Singapore trong thế kỷ XX và Trung Quốc trong thế kỷ XXI…
Đối với Việt Nam, khát vọng phát triển đất nước thật sự là sức mạnh nội sinh phi thường, cội nguồn tạo nên những kỳ tích trong suốt hàng nghìn năm dựng nước và giữ nước. Thời trung đại, Việt Nam đánh thắng tất cả các cuộc chiến tranh xâm lược của phong kiến phương Bắc, giữ vững nền độc lập dân tộc, bắt nguồn từ khát vọng về độc lập, chủ quyền quốc gia. Trong thời đại Hồ Chí Minh, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, nhân dân ta đã đập tan ách áp bức, bóc lột của đế quốc, thực dân, phong kiến; đánh thắng các thế lực xâm lược hùng mạnh, bảo vệ độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ, thống nhất đất nước, đưa cả nước đi lên chủ nghĩa xã hội. Những chiến công lừng lẫy đó bắt nguồn từ khát vọng mãnh liệt của toàn dân tộc: “Không có gì quý hơn độc lập, tự do”[4] và khát vọng này đã được Chủ tịch Hồ Chí Minh khái quát thành chân lý thời đại. Hiện nay, khát vọng phát triển giàu mạnh, hùng cường là một động lực mới thúc đẩy dân tộc ta tiến lên, khắc phục đói nghèo, lạc hậu, vượt qua “bẫy thu nhập trung bình” và “nguy cơ tụt hậu về kinh tế”.
Rõ ràng, Đảng ta không tuyệt đối hóa vai trò động lực của khát vọng phát triển đất nước mà xác định đây là một trong những động lực cho đổi mới, phát triển; là động lực thúc đẩy chứ không thể thay thế vai trò cơ sở, nền tảng quyết định của yếu tố kinh tế, vật chất, kỹ thuật và đặc biệt là chất lượng nguồn nhân lực.
Thứ hai, khơi dậy khát vọng phát triển đất nước trên cơ sở cơ đồ, tiềm lực, vị thế và uy tín đất nước
Khát vọng phát triển đất nước bắt nguồn từ niềm tin vững chắc vào cơ đồ, tiềm lực, vị thế và uy tín của đất nước sau gần 40 năm thực hiện công cuộc đổi mới. “Đất nước ta chưa bao giờ có được cơ đồ, tiềm lực, vị thế và uy tín quốc tế như ngày nay. Đây là niềm tự hào, là động lực, nguồn lực quan trọng, là niềm tin để toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta vượt qua mọi khó khăn, thách thức, tiếp tục vững bước trên con đường đổi mới toàn diện, đồng bộ; phát triển nhanh và bền vững đất nước”[5].
Trong nhiệm kỳ Đại hội XII, đất nước tiếp tục phát triển nhanh và khá toàn diện. Kinh tế vĩ mô ổn định, lạm phát được kiểm soát ở mức thấp, chất lượng tăng trưởng được nâng lên, các cân đối lớn của nền kinh tế được cải thiện. Tốc độ tăng trưởng GDP bình quân giai đoạn 2016 – 2020 đạt khoảng 6%/năm. Quy mô nền kinh tế và thu nhập bình quân đầu người tăng lên (Năm 2020, GDP đạt 271,2 tỉ USD và thu nhập bình quân đầu người đạt 2.779 USD). Năng suất lao động tăng từ 4,3%/năm giai đoạn 2011 – 2015 lên khoảng 6%/năm giai đoạn 2016 – 2020[6]. Lĩnh vực văn hóa, xã hội của đất nước đạt kết quả tích cực, an sinh xã hội cơ bản được bảo đảm, đời sống nhân dân tiếp tục được cải thiện. Đến năm 2020, Việt Nam đã đứng thứ 49 về phát triển bền vững trên thế giới trong khi thu nhập bình quân đầu người còn ở hạng ngoài 100[7].
Một trong những dấu ấn nổi bật nhất của Việt Nam trong giai đoạn 2016 – 2020 là thực hiện thắng lợi “mục tiêu kép”: vừa tập trung phòng chống, kiểm soát tốt dịch bệnh Covid-19; vừa tạo điều kiện thuận lợi cho phục hồi và phát triển kinh tế – xã hội. Việt Nam được truyền thông quốc tế ca ngợi là “mảnh đất tiềm năng” (Forbes), “bình minh đang lên” (báo Nga), “ngôi sao sáng” (Asia Times), “phép màu châu Á” (New York Times), “con Hổ châu Á” (Nikkei Asia)…
Công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng và hệ thống chính trị được tiến hành toàn diện, có trọng tâm, trọng điểm, “năng lực lãnh đạo, năng lực cầm quyền của Đảng được nâng lên”, “hiệu lực, hiệu quả quản lý của Nhà nước được củng cố và tăng cường”. Công tác phòng, chống tham nhũng, tiêu cực được tiến hành quyết liệt, đạt được những kết quả quan trọng; tuyệt đại đa số ý kiến người dân (93%) tin tưởng vào sự lãnh đạo của Đảng trong đấu tranh phòng, chống tham nhũng[8].
Sau gần 40 năm đổi mới, đất nước ta đã đạt được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử. Kinh tế phát triển; chính trị – xã hội ổn định; văn hóa – xã hội có bước phát triển; quốc phòng, an ninh được củng cố, tăng cường. Nếu năm 1988, thu nhập bình quân đầu người của nước ta mới chỉ đạt 86 USD/người/năm thì đến năm 2020 Việt Nam đã trở thành một quốc gia có quy mô dân số gần 100 triệu người với mức thu nhập bình quân gần 2.800 USD/người. Quan hệ đối ngoại được mở rộng và ngày càng đi vào chiều sâu; Việt Nam là bạn, là đối tác tin cậy và thành viên có trách nhiệm trong cộng đồng quốc tế. Vị thế, uy tín của Việt Nam trên trường quốc tế không ngừng được nâng cao. Độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc được giữ vững.
Thứ ba, chủ trương “khơi dậy khát vọng phát triển đất nước” là “ý Đảng” hợp “lòng dân”
Quá trình chuẩn bị các văn kiện trình Đại hội XIII, các Tiểu ban đã phối hợp chặt chẽ với các cơ quan ở Trung ương và địa phương tổ chức gần 60 hội nghị, hội thảo, toạ đàm; thành lập 50 đoàn đi khảo sát thực tế, làm việc, xin ý kiến các đồng chí nguyên lãnh đạo cấp cao của Đảng và Nhà nước, tham vấn ý kiến các chuyên gia, nhà khoa học; tổ chức tọa đàm với một số tổ chức quốc tế, 02 đoàn đi khảo sát, nghiên cứu kinh nghiệm ở nước ngoài. Các Tiểu ban đã tiến hành 20 phiên họp để thảo luận, thông qua Đề cương và các dự thảo văn kiện. Bộ Chính trị đã họp nhiều lần để cho ý kiến hoàn thiện Đề cương và các dự thảo văn kiện trình xin ý kiến Ban Chấp hành Trung ương tại các Hội nghị Trung ương 10, 11, 14 và 15. Các dự thảo Báo cáo đã được chỉnh lý, sửa chữa nhiều lần và được gửi xin ý kiến rộng rãi của các đại biểu Quốc hội, Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, nhiều tổ chức, cơ quan, đoàn thể… Bộ Chính trị đã quyết định công bố công khai toàn văn các dự thảo Báo cáo trên các phương tiện thông tin đại chúng để lắng nghe ý kiến của các tầng lớp nhân dân. Đã có hàng triệu lượt ý kiến đóng góp vào dự thảo các văn kiện và được tổng hợp gửi về Trung ương; các ý kiến đóng góp được tổng hợp lại thành 1.410 trang giấy A4.
Văn kiện được đánh giá có quá trình chuẩn bị “rất công phu, chu đáo, bài bản, qua nhiều lần, nhiều vòng, từng bước hoàn thiện, có nhiều đổi mới quan trọng về nội dung và phương pháp tiến hành. Quán triệt sâu sắc nguyên tắc kết hợp nhuần nhuyễn giữa lý luận và thực tiễn, giữa kiên định và đổi mới, giữa kế thừa và phát triển, trên cơ sở phát huy dân chủ rộng rãi, dự thảo các văn kiện đã thực sự là sản phẩm kết tinh trí tuệ của toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta, thể hiện rõ sự thống nhất giữa “ý Đảng, lòng Dân”, hòa quyện cùng quyết tâm và ý chí phát triển của dân tộc”[9]. Các ý kiến, đề xuất tâm huyết, trách nhiệm, kết tinh trí tuệ, ý chí và sức sáng tạo của toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta, mong muốn đất nước ta ngày càng phát triển phồn vinh; nhân dân ta ngày càng ấm no, hạnh phúc; dân tộc ta ngày càng cường thịnh, trường tồn. Tất cả những điều đó chứng minh tính khoa học, khách quan của những đánh giá, các mục tiêu, nhiệm vụ trong Văn kiện Đại hội XIII của Đảng.
Thứ tư, khơi dậy khát vọng phát triển đất nước được thể chế hoá thành những mục tiêu, tầm nhìn “trăm năm” và những kế hoạch, chương trình cụ thể.
Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng chỉ rõ: “Nói Đại hội XIII không phải chỉ cho đến năm 2026 (giai đoạn 2021 – 2026) mà phải có tầm nhìn chiến lược dài hơn, nhìn lại cả quá khứ và hướng tới tương lai”[10]. Khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc đã được Đảng, Nhà nước cụ thể hoá, thể chế hóa thành các mục tiêu, chỉ tiêu, chương trình, kế hoạch cụ thể, với lộ trình và bước đi phù hợp với điều kiện thực tế. Đây là một trong những phương cách khả thi nhất để góp phần hiện thực hóa khát vọng này.
Văn kiện Đại hội XIII của Đảng đã xác định những dấu mốc phát triển quan trọng của đất nước, những mục tiêu, tầm nhìn 100 năm thành lập Đảng và 100 năm thành lập nước: “Đến năm 2030: Là nước đang phát triển, có công nghiệp hiện đại, thu nhập trung bình cao. Đến năm 2045: Trở thành nước phát triển, thu nhập cao”[11].
Giai đoạn 2021 – 2030, Việt Nam xác định chỉ tiêu: Về kinh tế, tốc độ tăng trưởng tổng sản phẩm trong nước (GDP) bình quân khoảng 7%/năm; GDP bình quân đầu người theo giá hiện hành đến năm 2030 đạt khoảng 7.500 USD; tỷ trọng công nghiệp chế biến, chế tạo đạt khoảng 30% GDP, kinh tế số đạt khoảng 30% GDP; tỷ lệ đô thị hóa đạt trên 50%. Chỉ số phát triển con người (HDI) duy trì trên 0,74; tuổi thọ bình quân đạt 75 tuổi; tỷ lệ lao động qua đào tạo có bằng cấp, chứng chỉ đạt 35 – 40%. Tỷ lệ che phủ rừng ở mức 42%, 100% cơ sở sản xuất kinh doanh đạt quy chuẩn về môi trường[12]…
Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng nhấn mạnh, cần tập trung vào các đột phá cụ thể sau đây: (1) Hoàn thiện đồng bộ thể chế phát triển, trước hết là thể chế phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. (2) Phát triển nguồn nhân lực, nhất là nguồn nhân lực chất lượng cao; ưu tiên phát triển nguồn nhân lực cho công tác lãnh đạo, quản lý và các lĩnh vực then chốt. (3) Xây dựng hệ thống kết cấu hạ tầng đồng bộ, hiện đại; ưu tiên phát triển một số công trình trọng điểm quốc gia về giao thông, thích ứng với biến đổi khí hậu; chú trọng phát triển hạ tầng thông tin, viễn thông, tạo nền tảng chuyển đổi số quốc gia, từng bước phát triển kinh tế số, xã hội số.
Đưa đất nước phát triển phồn vinh, hạnh phúc là một quá trình cải biến xã hội toàn diện và sâu sắc. Để hoàn thành thắng lợi sự nghiệp vĩ đại này, cần huy động sức mạnh tổng hợp của khối đại đoàn kết toàn dân tộc, kết hợp chặt chẽ sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại với những kế hoạch, biện pháp cụ thể của Đảng, Nhà nước, của các cấp, các ngành, của cả hệ thống chính trị dưới sự lãnh đạo của Đảng trong từng giai đoạn.
Thứ năm, khơi dậy khát vọng phát triển đất nước bước đầu được minh chứng với kết quả sinh động của nước ta từ đầu nhiệm kỳ Đại hội XIII đến nay
Hơn nửa nhiệm kỳ Đại hội XIII của Đảng đã đi qua để lại những dấu ấn nổi bật, trong bối cảnh tình hình trong nước và thế giới có những diễn biến nhanh chóng, phức tạp, khó lường, nhất là ảnh hưởng nặng nề bởi đại dịch Covid-19, khó khăn về kinh tế toàn cầu, diễn biến phức tạp của tình hình chính trị, quốc phòng, an ninh, đối ngoại,… song toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta đã chủ động, đoàn kết, nỗ lực phấn đấu, hoàn thành ở mức cao nhất các mục tiêu, nhiệm vụ đã đề ra, đạt được nhiều kết quả quan trọng, khá toàn diện.
Việt Nam đã nỗ lực duy trì, phục hồi và thúc đẩy phát triển kinh tế với nhiều điểm sáng tích cực. Năm 2021, tăng trưởng kinh tế đạt 2,58%; thu ngân sách tăng 16,4%; tổng kim ngạch xuất, nhập khẩu hàng hóa đạt mức kỷ lục 668,5 tỷ USD (đưa Việt Nam trở thành 1 trong 20 nước có nền kinh tế đứng đầu thế giới về thương mại). Tổng vốn đầu tư phát triển toàn xã hội tương đương 34,4% GDP, tăng 1,2% so với năm 2020. An ninh lương thực được bảo đảm; xuất khẩu nông sản đạt 48,6 tỷ USD[13].
Năm 2022, tăng trưởng GDP đạt 8,02%, mức cao nhất trong hơn 10 năm qua; các cân đối lớn của nền kinh tế được bảo đảm. Thu ngân sách vượt 26,4% dự toán, tăng 13,8% so với năm 2021. Tổng kim ngạch xuất, nhập khẩu đạt 732,5 tỷ USD. Tổng vốn đầu tư thực hiện toàn xã hội đạt trên 3,2 triệu tỷ đồng, tăng 11,2%. Nông nghiệp phát triển ổn định; xuất khẩu nông, lâm, thủy sản đạt kỷ lục trên 53,2 tỷ USD, trong đó xuất khẩu gạo 7,12 triệu tấn. Sản xuất công nghiệp tăng 7,69%. Các ngành dịch vụ phục hồi mạnh mẽ, tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng tăng 19,8%[14].
Năm 2023, kinh tế vĩ mô ổn định, lạm phát được kiểm soát, các cân đối lớn được đảm bảo. Tăng trưởng kinh tế Việt Nam từng bước phục hồi, quý sau cao hơn quý trước, cả năm ước đạt 5,05% thuộc nhóm các nước tăng trưởng cao trong khu vực và thế giới; nhiều tổ chức quốc tế có uy tín đánh giá cao kết quả và triển vọng của nền kinh tế nước ta. Chỉ số giá tiêu dùng bình quân cả năm tăng 3,25%. Thu ngân sách nhà nước vượt khoảng 8,12% so với dự toán trong bối cảnh tiếp tục thực hiện nhiều giải pháp miễn, giảm, gia hạn nhiều loại thuế, phí, lệ phí, tiền sử dụng đất; nợ công, nợ Chính phủ, nợ nước ngoài quốc gia, bội chi NSNN được kiểm soát trong giới hạn cho phép.
Xuất nhập khẩu có xu hướng phục hồi, cả năm ước xuất siêu khoảng 28 tỷ USD. Khu vực nông nghiệp phát triển ổn định, tiếp tục là trụ đỡ vững chắc của nền kinh tế trong khó khăn, cả năm ước tăng 3,83%, cao nhất trong 10 năm qua; khu vực dịch vụ phát triển khá sôi động, tăng 6,82%; công nghiệp phục hồi nhanh qua từng quý, cả năm tăng 3,02%, trong đó, công nghiệp chế biến, chế tạo tăng 3,62%. An ninh năng lượng, an ninh lương thực được bảo đảm. Giải ngân vốn đầu tư công cả năm 2023 ước đạt 95% kế hoạch, cao hơn năm 2022 cả về tỷ lệ và số tuyệt đối. Thu hút vốn đầu tư nước ngoài đạt gần 36,6 tỷ USD, tăng 32,1% trong bốicảnh thương mại, đầu tư toàn cầu bị thu hẹp; vốn FDI thực hiện đạt gần 23,2 tỷ USD, cao nhất từ trước đến nay.[15].
Một tín hiệu lạc quan nữa là trong khó khăn, chúng ta vẫn tiếp tục quan tâm phát triển các lĩnh vực văn hóa, xã hội. Sau Hội nghị Văn hóa toàn quốc năm 2021, các chủ trương, chính sách phát triển văn hoá, con người được triển khai đồng bộ, có hiệu quả. Việt Nam đã ứng phó, kiềm chế, kiểm soát được dịch bệnh, từng bước chuyển sang trạng thái “Thích ứng an toàn, linh hoạt, kiểm soát hiệu quả dịch Covid-19”. Các cơ chế, chính sách hỗ trợ người dân, doanh nghiệp bị ảnh hưởng bởi dịch bệnh đã được triển khai nhanh chóng, quyết liệt với tinh thần “lợi ích phải hài hoà, rủi ro cùng chia sẻ”, góp phần bảo đảm an sinh xã hội và cải thiện đời sống nhân dân.
Quốc phòng, an ninh tiếp tục được củng cố, tăng cường; môi trường hòa bình, ổn định được giữ vững, tạo thuận lợi cho phát triển kinh tế – xã hội. Công tác đối ngoại và hội nhập quốc tế được mở rộng, đi vào chiều sâu, triển khai đồng bộ, toàn diện, linh hoạt, hiệu quả trường phái ngoại giao “cây tre Việt Nam”. Vị thế, uy tín quốc tế của nước ta ngày càng được nâng cao trên trường quốc tế; đóng góp tích cực, hiệu quả, có trách nhiệm vào việc giữ vững hòa bình, hợp tác, phát triển, tiến bộ và công bằng xã hội trên phạm vi toàn thế giới.
Những giải pháp “khơi dậy khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc” trong thời gian tới
Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng yêu cầu: “Luôn phải có các chính sách, biện pháp phù hợp để khơi dậy khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc”[16]. Để khơi dậy khát vọng phát triển đất nước của các tầng lớp nhân dân trong thời gian tới, cần tiến hành đồng bộ, quyết liệt các giải pháp chủ yếu sau:
Một là, đẩy mạnh tuyên truyền, giáo dục, “truyền cảm hứng” về khát vọng phát triển đất nước phồn vinh trong các tầng lớp nhân dân.
Tiếp tục đổi mới công tác giáo dục chính trị tư tưởng; đẩy mạnh tuyên truyền, giáo dục đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước để cán bộ, đảng viên, nhân dân vững tin vào sự lãnh đạo của Đảng và tương lai tươi sáng của dân tộc. Đổi mới học tập lý luận chính trị, chú trọng giáo dục lòng yêu nước, ý chí tự lực, tự cường, định hướng tư tưởng cho cán bộ, đảng viên, nhân dân trước các vấn đề thời sự chính trị của thế giới và trong nước. Cần tăng cường tuyên truyền, giác ngộ, “truyền cảm hứng” tích cực về khát vọng phát triển đất nước sâu rộng trong các tầng lớp nhân dân, với sự sinh động, phong phú, thiết thực và hiệu quả bằng các hình thức, phương pháp đa dạng, phong phú, hấp dẫn.
Tập trung khơi dậy “tinh thần yêu nước, niềm tự hào, ý chí tự cường, lòng nhân ái, tinh thần đoàn kết, đồng thuận xã hội và khát vọng phát triển đất nước của toàn dân tộc[17]. Làm cho khát vọng phát triển đất nước trở thành niềm vinh dự, tự hào, phương châm, lẽ sống và hành động, là mệnh lệnh từ trái tim của mỗi người dân Việt Nam, nhất là thanh niên, học sinh, sinh viên. Coi trọng giáo dục thế hệ trẻ về “lý tưởng cách mạng, đạo đức, lối sống văn hóa, nâng cao lòng yêu nước, tự hào dân tộc, nuôi dưỡng ước mơ, hoài bão, khát vọng vươn lên; nêu cao tinh thần trách nhiệm đối với đất nước, với xã hội”[18].
Đặc biệt, dưới góc độ kinh tế, khát vọng phát triển đất nước được thể hiện chủ yếu ở tinh thần vươn lên, không cam chịu đói nghèo, lạc hậu, chậm phát triển. Mặc dù công cuộc đổi mới đã đạt được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử, song đất nước ta vẫn đứng trước nhiều khó khăn, thách thức. Vì vậy, khơi dậy khát vọng phát triển đất nước hiện nay chính là khơi dậy ý thức lao động hăng say, sáng tạo, nỗ lực vươn lên làm giàu chính đáng, hợp pháp của mỗi người dân Việt Nam; nhất là sự cố gắng phấn đấu của thanh niên nước nhà trong học tập, lao động sáng tạo, khởi nghiệp, lập thân, lập nghiệp.
Hai là, xây dựng, hoàn thiện đồng bộ các cơ chế, chính sách phát huy tinh thần cống hiến vì Tổ quốc của mọi người dân Việt Nam.
Đảng, Nhà nước cần chủ động tạo lập các yếu tố, điều kiện và môi trường xã hội thuận lợi để khơi dậy và hiện thực hóa khát vọng phát triển đất nước ở mỗi người dân Việt Nam. Phải “xây dựng các cơ chế, chính sách phát huy tinh thần cống hiến vì đất nước của mọi người dân Việt Nam”[19].
Cần mở rộng dân chủ trong Đảng và toàn xã hội, coi trọng “ban hành đường lối, chủ trương, chính sách, pháp luật tạo nền tảng chính trị, pháp lý, tôn trọng, bảo đảm, bảo vệ quyền làm chủ của nhân dân. Đề cao vai trò chủ thể, vị trí trung tâm của nhân dân trong chiến lược phát triển đất nước, trong toàn bộ quá trình xây dựng và bảo vệ Tổ quốc”[20]. Phát huy tính tích cực, chủ động, năng động, sáng tạo, quyền và trách nhiệm của nhân dân trong tham gia vào các công việc chung của đất nước theo phương châm “dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra, dân giám sát, dân thụ hưởng”. Xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc; tạo lập và phát huy sức mạnh đồng thuận của nhân dân trong và ngoài nước để xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Thực hiện cải cách mang tính đột phá về thể chế, cơ chế, chính sách, pháp luật nhằm gắn kết chặt chẽ với tầm nhìn chiến lược phát triển dài hạn. Đảm bảo kết hợp giữa quản lý, kiểm soát bằng các quyết định hành chính với quản trị hiện đại, phục vụ nhân dân, đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững đất nước; xây dựng và thực thi có hiệu quả các cơ chế, chính sách chuyển đổi sang mô hình phát triển theo chiều sâu, thúc đẩy khởi nghiệp dựa trên cơ sở đổi mới sáng tạo và ứng dụng khoa học, công nghệ tiên tiến.
Tạo lập môi trường, chính sách thuận lợi, minh bạch bảo đảm phát triển văn hóa, con người, an sinh xã hội và bảo vệ môi trường. Rà soát, bổ sung, hoàn thiện các chính sách an sinh xã hội, trợ giúp xã hội, ưu đãi xã hội; chính sách việc làm, chính sách tiền lương, nâng cao khả năng tiếp cận các dịch vụ xã hội cơ bản cho các đối tượng; chính sách xóa nghèo bền vững; giải quyết mối quan hệ giữa phát triển kinh tế – xã hội với bảo vệ môi trường.
Ba là, tăng cường sự lãnh đạo của Đảng và sự vào cuộc quyết liệt của cả hệ thống chính trị trong khơi dậy khát vọng phát triển đất nước
Sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng là nhân tố hàng đầu quyết định việc thực hiện thắng lợi khát vọng, mục tiêu, tầm nhìn phát triển đất nước trong thời gian tới. Do vậy, phải “xây dựng, chỉnh đốn Đảng toàn diện về chính trị, tư tưởng, đạo đức, tổ chức và cán bộ”[21]; “giữ gìn Đảng ta thật trong sạch, phải xứng đáng là người lãnh đạo, là người đầy tớ thật trung thành của nhân dân”[22]; phát huy tính tiên phong, gương mẫu của cán bộ, đảng viên trong các phong trào hành động cách mạng, phát triển kinh tế – xã hội, vươn lên làm giàu chính đáng. Đảng ta cần nắm vững bản chất cách mạng, khoa học của chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, bám sát thực tiễn đất nước, xu thế thời đại để hoạch định đường lối, chủ trương đúng đắn. Xây dựng đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý các cấp, nhất là người đứng đầu đủ phẩm chất, năng lực và uy tín, “dám nghĩ, dám làm, dám dấn thân, dám chịu trách nhiệm, có khát vọng phát triển”. Kiên quyết đấu tranh ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ.
Xây dựng, hoàn thiện “Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam của nhân dân, do nhân dân, và vì nhân dân do Đảng lãnh đạo”[23], bảo đảm đồng bộ cả lĩnh vực lập pháp, hành pháp và tư pháp, chính quyền Trung ương và chính quyền địa phương; nêu cao sứ mệnh phục vụ nhân dân; làm rõ mối quan hệ giữa Nhà nước, thị trường và xã hội. Tăng cường kiểm soát quyền lực Nhà nước, thực hiện nguyên tắc tất cả quyền lực Nhà nước thuộc về nhân dân. Các cơ quan nhà nước cần ban hành hệ thống pháp luật, chính sách đồng bộ nhằm tạo điều kiện cho các tầng lớp nhân dân, kiều bào ta ở nước ngoài đóng góp cho sự phát triển chung của đất nước.
Tích cực đổi mới hoạt động của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức chính trị – xã hội bảo đảm có trọng tâm, trọng điểm, thực chất nhằm bảo vệ quyền lợi hợp pháp của nhân dân. Đẩy mạnh tuyên truyền, vận động đoàn viên, hội viên, các tầng lớp nhân dân theo hướng thiết thực, hướng về cơ sở, chú ý những nhân tố mới, những cách làm sáng tạo trong sản xuất, kinh doanh, vươn lên làm giàu chính đáng. Nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác giám sát và phản biện xã hội; hoạt động tiếp xúc cử tri, tiếp dân, đối thoại; giải quyết những vấn đề bức xúc của nhân dân ngay từ cơ sở. Đấu tranh với các biểu hiện thờ ơ, vô cảm, cửa quyền, hách dịch, nhũng nhiễu đối với nhân dân.
Tóm lại, “khơi dậy khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc” là chủ trương đúng đắn, khoa học của Đảng Cộng sản Việt Nam. Chúng ta có đủ cơ sở lý luận và thực tiễn thuyết phục, sống động để phản bác các luận điệu chống phá, xuyên tạc của các thế lực thù địch. Trong hành trình vĩ đại của dân tộc tiến lên giàu mạnh, phồn vinh, hạnh phúc, toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta cần phấn đấu không mệt mỏi, bền gan vững chí, vượt qua mọi khó khăn thử thách, quyết tâm thực hiện thắng lợi mục tiêu, tầm nhìn phát triển mà Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII đã hoạch định, đúng như di nguyện của Chủ tịch Hồ Chí Minh và ước vọng chính đáng ngàn đời của toàn dân tộc./.
Sưu tầm