Không thể dung thứ các luận điệu xuyên tạc thành tựu của Việt Nam trong việc thực thi nền dân chủ xã hội chủ nghĩa

Trong quá trình đổi mới, Đảng và Nhà nước ta luôn quan tâm thực hiện nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, góp phần thực hiện mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”. Tuy nhiên, các thế lực thù địch luôn xuyên tạc thành tựu của Việt Nam trong việc thực hiện nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, bảo đảm quyền con người, quyền công dân. Do đó, nhận diện và phản bác các luận điệu sai trái là nhiệm vụ quan trọng.

Nhận diện, phản bác các luận điệu xuyên tạc thành tựu của Việt Nam trong thực thi nền dân chủ xã hội chủ nghĩa

Trong những năm qua, nhiều tổ chức theo cách gọi của nước ngoài, như tổ chức theo dõi nhân quyền Human Rights Watch (HRW), tổ chức phi chính phủ Freedom House, tổ chức Ân xá Quốc tế Amnesty International (AI), tổ chức Phóng viên Không Biên giới (RSF), Ủy ban Tự do Tôn giáo Quốc tế Hoa Kỳ (USCIRF), tổ chức phản động lưu vong Việt Tân – tên viết tắt của cái gọi là “Việt Nam canh tân cách mạng đảng”… và nhiều cá nhân đã dùng nhiều thủ đoạn, sử dụng luận điệu rất tinh vi, nguy hiểm để xuyên tạc thành tựu của Việt Nam trong thực thi nền dân chủ xã hội chủ nghĩa.

Luận điệu xuyên tạc thực thi dân chủ, bảo đảm quyền con người

Một trong những luận điệu xuyên tạc phổ biến mà các thế lực thù địch thường xuyên cáo buộc Việt Nam không có dân chủ. Các tổ chức và một số cá nhân đã đưa ra báo cáo, bài viết với nội dung xuyên tạc thành tựu bảo đảm, bảo vệ quyền con người ở Việt Nam… Tuy nhiên, các cáo buộc không có cơ sở và phản ánh ngược lại thực tế của nền dân chủ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam.

Về mặt pháp lý, quyền con người và quyền công dân ở Việt Nam được hiến định trong Hiến pháp năm 2013. Điều 14 Hiến pháp khẳng định: “Ở nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, quyền con người, quyền công dân về chính trị, dân sự, kinh tế, văn hóa và xã hội được công nhận, tôn trọng, bảo vệ và bảo đảm theo Hiến pháp và pháp luật”. Điều này, thể hiện sự cam kết mạnh mẽ của Việt Nam trong việc bảo đảm, bảo vệ quyền con người.

Từ năm 1982 đến nay, Việt Nam tham gia ký kết và thực hiện nhiều điều ước quốc tế quan trọng về quyền con người, như Công ước Quốc tế về các quyền dân sự và chính trị (ICCPR) năm 1982 và Công ước Quốc tế về các quyền kinh tế, xã hội và văn hóa (ICESCR) năm 1982, Công ước quốc tế về quyền trẻ em (CRC) năm 1990, Công ước xóa bỏ mọi hình thức phân biệt đối xử với phụ nữ (CEDAW) năm 1982. Việt Nam là thành viên tích cực của Hội đồng Nhân quyền Liên hiệp quốc nhiệm kỳ 2023 – 2025, hai lần trúng cử Ủy viên không thường trực Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc (2008 – 2009 và 2020 – 2021). Năm 2020, Việt Nam là Chủ tịch Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN), đồng thời là Chủ tịch Ủy ban liên chính phủ ASEAN về nhân quyền (AICHR). Nghị quyết của Hội đồng Nhân quyền về biến đổi khí hậu và quyền con người đã được ba quốc gia: Việt Nam, Phi-líp-pin, Băng-la-đét cùng trực tiếp soạn thảo, được chính thức thông qua vào tháng 7-2019, tại trụ sở Liên hợp quốc ở Giơ-ne-vơ, Thụy Sĩ.

Với vị trí quan trọng mà Việt Nam đã đảm nhận trong các tổ chức quốc tế, khu vực, cũng như việc tham gia rất sớm các điều ước quốc tế và khu vực về quyền con người đã minh chứng sự quan tâm bảo đảm, bảo vệ quyền con người của Việt Nam gắn với các giá trị phổ quát về quyền con người.

Lễ khai giảng năm học mới 2025 – 2026 tại Trường Phổ thông Vùng cao Việt Bắc (tỉnh Thái Nguyên)

Thành tựu đạt được của Việt Nam trong gần 40 năm tiến hành công cuộc đổi mới đã bác bỏ hoàn toàn cáo buộc của các thế lực phản động, thù địch. Quyền con người trong hệ thống bầu cử ở Việt Nam được bảo đảm theo nguyên tắc dân chủ, bình đẳng, công bằng và minh bạch. Hiến pháp năm 2013 quy định mọi công dân Việt Nam từ 18 tuổi trở lên có quyền bầu cử, từ 21 tuổi trở lên có quyền ứng cử vào Quốc hội và hội đồng nhân dân các cấp. Việc bầu cử được thực hiện theo nguyên tắc phổ thông, trực tiếp, bình đẳng và bỏ phiếu kín, bảo đảm sự tham gia rộng rãi của người dân vào đời sống chính trị. Ngoài ra, quyền bầu cử được thực thi trên cơ sở bình đẳng, không phân biệt giới tính, dân tộc, tôn giáo hay địa vị xã hội; đồng thời, khuyến khích, tạo điều kiện để phụ nữ và người dân tộc thiểu số tham gia tích cực. Hệ thống bầu cử luôn đề cao tính minh bạch khi công khai danh sách cử tri và ứng cử viên, có sự giám sát của tổ chức và nhân dân để bảo đảm công bằng, khách quan trong quá trình bầu cử.

Trong công cuộc đổi mới, Việt Nam đã giành nhiều thành tựu quan trọng trong bảo đảm các quyền con người về kinh tế, văn hóa, xã hội. Theo Báo cáo của Liên hợp quốc ngày 14-3-2024, Chỉ số phát triển con người (HDI) năm 2022 của Việt Nam nằm trong nhóm các quốc gia có mức phát triển con người trung bình cao là 0,726, đứng thứ 107 trên 193 quốc gia và vùng lãnh thổ, với những tiến bộ đáng kể trong giáo dục, y tế và chính sách an sinh xã hội. Tuổi thọ trung bình là 73,5 tuổi và tỷ lệ hộ nghèo giảm mạnh qua các năm. Việt Nam là một trong những nước đi đầu trong việc thực hiện các Mục tiêu Phát triển bền vững (SDGs) của Liên hiệp quốc, thể hiện cam kết rõ ràng trong việc nâng cao chất lượng cuộc sống của người dân. “Việt Nam xếp thứ 91/166 quốc gia về Chỉ số Bất bình đẳng Giới, chỉ số xem xét sự bất bình đẳng trên ba khía cạnh sức khỏe sinh sản, trao quyền và thị trường lao động”(1).

Như vậy, cả phương diện pháp lý và thực tiễn đều bác bỏ đanh thép các luận điệu xuyên tạc thành tựu của Việt Nam trong việc bảo đảm, bảo vệ quyền tự do dân chủ, quyền con người. Mặt khác, khi xem xét về quyền con người, luôn phải đặt trong bối cảnh cụ thể, điểm xuất phát về kinh tế, văn hóa, xã hội, lịch sử của mỗi quốc gia. Một thực tế không thể phủ nhận đối với những người Việt Nam chân chính là sau nhiều năm tháng chịu hậu quả chiến tranh, gần 20 năm chịu cấm vận, mới thấu hiểu rằng những thành tựu về thực thi dân chủ nói chung, quyền con người nói riêng mà nhân dân Việt Nam có được ngày hôm nay là sự nỗ lực không ngừng của Đảng, Nhà nước và toàn thể nhân dân.

Luận điệu chống phá việc thực hiện quyền tự do ngôn luận, báo chí, tiếp cận internet

Đây là một trong những luận điệu sai trái mà nhiều tổ chức theo cách gọi của nước ngoài, cá nhân phản động thường sử dụng để xuyên tạc về thành tựu thực thi dân chủ ở Việt Nam. Năm 2023, tổ chức Human Rights Watch (HRW) công bố báo cáo  mà họ chụp mũ là “nhà báo bị đàn áp” theo cách tiếp cận của pháp luật Hoa Kỳ, nhưng hoàn toàn lờ đi quy định của pháp luật Việt Nam – pháp luật của nước nơi các cá nhân này là công dân. Cùng thời gian đó, tổ chức Phóng viên Không Biên giới (RSF) trắng trợn xếp Việt Nam vào nhóm các quốc gia “kẻ thù của báo chí”, vu cáo rằng “mọi phương tiện truyền thông đều bị kiểm soát bởi nhà nước”. Tổ chức phản động Việt Tân, một số cá nhân chống đối, như Nguyễn Văn Đài, Phạm Đoan Trang, đã tiếp tay cho các thế lực thù địch, lợi dụng mạng xã hội để truyền bá Việt Nam kiểm duyệt internet, không cho phép người dân được tiếp cận thông tin một cách tự do. Tuy nhiên, cáo buộc này hoàn toàn không có cơ sở thực tế và đi ngược lại với những thành tựu mà Việt Nam đã đạt được trong việc bảo đảm quyền tự do ngôn luận, báo chí và phát triển không gian mạng.

Hiến pháp Việt Nam năm 2013 đã quy định rõ quyền tự do ngôn luận và tự do báo chí. Điều 25 Hiến pháp khẳng định: “Công dân có quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí, tiếp cận thông tin, hội họp, lập hội, biểu tình. Việc thực hiện các quyền này do pháp luật quy định”. Điều này thể hiện sự cam kết của Nhà nước trong việc bảo đảm quyền tự do dân chủ của người dân; đồng thời, đặt ra các giới hạn hợp lý để tránh việc lạm dụng quyền tự do, dân chủ. “Tính đến năm 2024, Việt Nam có hệ thống báo chí phát triển mạnh mẽ với hơn 800 cơ quan báo chí, hàng trăm kênh truyền hình và nền tảng truyền thông số”(2), “đến đầu năm 2024, Việt Nam đã có tới 78,44 triệu người dùng internet (chiếm 79,1% dân số), 73,3% dân số sử dụng mạng xã hội, 92,7% người dùng internet sử dụng ít nhất một nền tảng mạng xã hội”(3). Đây là nơi công dân có thể bày tỏ quan điểm, thảo luận công khai nhiều vấn đề xã hội là minh chứng cho sự cởi mở trong tiếp cận thông tin. Nhà nước Việt Nam chỉ xử lý cá nhân, tổ chức lợi dụng quyền tự do dân chủ để truyền bá thông tin sai sự thật, kích động chống phá Nhà nước, vi phạm pháp luật. Điều này hoàn toàn phù hợp với các giá trị phổ quát quốc tế, yêu cầu về quản lý thông tin và bảo vệ an ninh quốc gia.

Từ căn cứ trên, có thể thấy rằng luận điệu xuyên tạc về “Việt Nam xâm phạm quyền tự do ngôn luận, báo chí và internet” là hoàn toàn không có cơ sở. Việt Nam luôn bảo đảm các quyền phù hợp với điều kiện thực tế, đồng thời thực hiện các biện pháp cần thiết để quản lý thông tin, chống hành vi lợi dụng quyền tự do dân chủ để gây mất ổn định xã hội. Việc đấu tranh, phản bác các thông tin sai lệch là cần thiết để bảo vệ uy tín và hình ảnh của Việt Nam trên trường quốc tế.

Luận điệu kích động, xuyên tạc về thành tựu của Việt Nam trong việc bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo, quyền dân tộc

Thời gian qua, các tổ chức liên tục đưa ra các báo cáo mang tính xuyên tạc, cho rằng Việt Nam kiểm soát chặt chẽ hoạt động tôn giáo, ngăn cản quyền tự do tín ngưỡng của người dân. Năm 2023, Ủy ban Tự do Tôn giáo Quốc tế Hoa Kỳ (USCIRF) đã công bố một báo cáo khuyến nghị đưa Việt Nam vào danh sách các quốc gia cần quan tâm đặc biệt (CPC), với cáo buộc “Việt Nam sử dụng các tổ chức tôn giáo được Nhà nước hậu thuẫn để đàn áp các nhóm tôn giáo độc lập”(4)… Một số cá nhân phản động trong cái gọi là “Hội Anh em dân chủ”, “Chính phủ quốc gia Việt Nam lâm thời” thường xuyên truyền bá, Việt Nam đàn áp Công giáo, Tin lành và Phật giáo; Việt Nam phân biệt đối xử với đồng bào dân tộc thiểu số ở Tây Nguyên, chính quyền “hạn chế văn hóa tại chỗ, không cho phép người dân theo đạo Tin lành”,… nhằm kích động người dân chống đối chính quyền. Thực tế ở Việt Nam cho thấy hoàn toàn ngược lại, khi quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo và sự bình đẳng, đoàn kết, tôn trọng và giúp nhau cùng phát triển giữa các dân tộc luôn được tôn trọng, được bảo vệ cả về pháp lý và thực tế.

Về việc thừa nhận, bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo, ngay từ năm 1945, Sắc lệnh số 35, ngày 20-9-1945, của Chủ tịch Chính phủ lâm thời nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, nay là nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam đã ghi nhận quyền tự do tín ngưỡng là một nguyên tắc của chính thể Dân chủ cộng hòa. Hiến pháp năm 1946 đã hiến định quyền này tại Điều thứ 10: Công dân Việt Nam có quyền tự do tín ngưỡng. Sắc lệnh số 22/SL, ngày 18-2-1946, của Chủ tịch Chính phủ lâm thời nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, nay là nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, quy định về ngày Tết, kỷ niệm lịch sử và lễ tôn giáo. Các Hiến pháp năm 1959, 1980, 1992 đều ghi nhận quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo. Điều 24 Hiến pháp năm 2013, khẳng định: “Mọi người có quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo, theo hoặc không theo một tôn giáo nào. Các tôn giáo bình đẳng trước pháp luật”. Luật Tín ngưỡng, Tôn giáo năm 2016 cũng quy định rõ việc bảo đảm quyền sinh hoạt tôn giáo của các tổ chức và cá nhân, đồng thời đề ra các điều kiện để bảo vệ quyền lợi của người theo đạo và không theo đạo. Điều này cho thấy Nhà nước Việt Nam không hề cản trở hay hạn chế quyền tự do tôn giáo.

Theo kết quả Tổng điều tra dân số và nhà ở năm 2019, nước ta có trên 13 triệu tín đồ tôn giáo. Theo thống kê năm 2022, Việt Nam có trên 26,5 triệu tín đồ tôn giáo (chiếm 27% dân số cả nước), hơn 54 nghìn chức sắc, 135 nghìn chức việc và 29.658 cơ sở thờ tự(5). Số liệu này phản ánh sự gia tăng đáng kể về số lượng tín đồ, chức sắc và cơ sở thờ tự trong những năm gần đây. Các tôn giáo, trong đó có nhiều tôn giáo lớn, như Phật giáo, Công giáo, Tin lành, Cao Đài, Hòa Hảo đều hiện diện ở Việt Nam. Nhà nước bảo hộ cơ sở tín ngưỡng, cơ sở tôn giáo và tài sản hợp pháp của cơ sở tín ngưỡng, tổ chức tôn giáo. Nhiều lễ hội tôn giáo lớn, như Đại lễ Phật đản (Vesak) tại Việt Nam vào các năm 2008, 2014, 2019 và 2025, với hàng nghìn đại biểu quốc tế tham dự, hay Đại hội Công giáo toàn quốc với số lượng lớn đại biểu, bao gồm linh mục, tu sĩ và giáo dân đại diện cho đồng bào Công giáo cả nước, được tổ chức, đã bác bỏ hoàn toàn cáo buộc về “đàn áp tôn giáo”.

Về việc bảo đảm bình đẳng, đoàn kết, tôn trọng và giúp nhau cùng phát triển giữa các dân tộc, Việt Nam là quốc gia đa dân tộc, với 54 dân tộc anh em, trong đó các dân tộc thiểu số chiếm khoảng 14% dân số. Trong quá trình xây dựng và phát triển đất nước, nhất là trong gần 40 năm tiến hành công cuộc đổi mới, các Nghị quyết Đại hội X, XI, XII, XIII của Đảng luôn xác định công tác dân tộc là vấn đề chiến lược cơ bản, lâu dài, cấp bách, là nhiệm vụ của Đảng, toàn dân, toàn quân và của cả hệ thống chính trị. Đảng, Nhà nước Việt Nam luôn tạo cơ hội, điều kiện để đồng bào dân tộc thiểu số tham gia xây dựng hệ thống chính trị, quản lý đất nước, đặc biệt chú trọng đến chính sách phát triển đội ngũ cán bộ dân tộc thiểu số. Tại Đại hội XIII của Đảng có 13 Ủy viên Trung ương Đảng là người dân tộc thiểu số. Số lượng đại biểu Quốc hội người dân tộc thiểu số ở Việt Nam đã tăng dần theo các khóa: Khóa I: 10,2%, khóa XII: 17,7%, khóa XIII: 15,6%, khóa XIV: 17,3%, khóa XV: có 89 đại biểu người dân tộc thiểu số, chiếm 17,84% số đại biểu (là tỷ lệ cao nhất từ trước đến nay). Đây cũng là lần đầu tiên Quốc hội nước Việt Nam có thêm đại diện của 2 dân tộc thiểu số rất ít người là Lự và Brâu. Các dân tộc thiểu số được hỗ trợ về giáo dục, y tế, bảo tồn văn hóa, thể hiện rõ qua việc Nhà nước lập các trường dân tộc nội trú, đưa tiếng nói của một số dân tộc vào chương trình học tập. Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 quy định: Người tham gia tố tụng dân sự có quyền dùng tiếng nói và chữ viết của dân tộc mình; Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 quy định: Người tham gia tố tụng có quyền dùng tiếng nói và chữ viết của dân tộc mình. Luật Tố tụng hành chính năm 2015 quy định: Người tham gia tố tụng hành chính có quyền dùng tiếng nói và chữ viết của dân tộc mình. Luật Cạnh tranh năm 2018 quy định: Người tham gia tố tụng cạnh tranh có quyền dùng tiếng nói và chữ viết của dân tộc mình. Đây là minh chứng rõ ràng về việc Nhà nước Việt Nam không hề có sự phân biệt đối xử đồng bào dân tộc thiểu số như các luận điệu xuyên tạc.

Luận điệu xuyên tạc mô hình chính trị của Việt Nam

Một trong những luận điệu hết sức nguy hiểm mà các tổ chức, cá nhân phản động thường xuyên tìm mọi cách xuyên tạc là mô hình chính trị của Việt Nam. Các tổ chức theo cách gọi của nước ngoài, như tổ chức theo dõi nhân quyền Human Rights Watch (HRW), tổ chức Ân xá Quốc tế Amnesty International (AI), tổ chức Freedom House… nhiều lần cáo buộc Việt Nam, đòi Việt Nam thực hiện đa nguyên, đa đảng, tự do chính trị; đòi cải cách thể chế theo mô hình phương Tây.

Điều 4 Hiến pháp năm 2013 của Việt Nam quy định: “Đảng Cộng sản Việt Nam, đội tiên phong của giai cấp công nhân, đồng thời là đội tiên phong của nhân dân lao động và của cả dân tộc Việt Nam, đại biểu trung thành lợi ích của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và của cả dân tộc, lấy chủ nghĩa Mác – Lê-nin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng, là lực lượng lãnh đạo Nhà nước và xã hội”. Quy định này phản ánh thực tế lịch sử rằng Đảng Cộng sản Việt Nam đã lãnh đạo nhân dân giành độc lập, thống nhất đất nước, bảo vệ chủ quyền và đưa đất nước đạt được những thành tựu to lớn, có vị trí, uy tín quốc tế như hiện nay. Sự lãnh đạo của Đảng không phải là sự “áp đặt”, mà được khẳng định qua thực tiễn và sự ủng hộ của nhân dân.

Đảng Cộng sản Việt Nam luôn đề cao dân chủ trong hệ thống chính trị. Hệ thống chính trị Việt Nam vận hành theo nguyên tắc tập trung dân chủ, trong đó Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ. Người dân có quyền bầu cử, ứng cử vào Quốc hội và hội đồng nhân dân các cấp, giám sát hoạt động của chính quyền và tham gia vào quá trình hoạch định chính sách. Điều này thể hiện rõ qua các cuộc bầu cử Quốc hội gần đây, với tỷ lệ cử tri đi bầu luôn đạt trên 95%, cho thấy niềm tin của nhân dân đối với Đảng, Nhà nước.

Những thành tựu phát triển kinh tế – xã hội dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam là minh chứng rõ ràng cho tính hiệu quả của mô hình chính trị này. Trong công cuộc đổi mới, Việt Nam từ một quốc gia nghèo đói đã vươn lên thành nền kinh tế có thu nhập trung bình, là một trong những quốc gia có tốc độ tăng trưởng cao của thế giới. Điều này đã được cộng đồng quốc tế ghi nhận thông qua đánh giá của Ngân hàng Thế giới (World Bank), nêu bật Việt Nam như một hình mẫu tiêu biểu trong phát triển kinh tế(6).

Những năm qua, Đảng Cộng sản Việt Nam không ngừng đổi mới, xây dựng và chỉnh đốn, lắng nghe tâm tư, nguyện vọng chính đáng từ nhân dân. Các chương trình phòng, chống tham nhũng, lãng phí, tiêu cực trong những năm qua đã chứng minh quyết tâm làm trong sạch bộ máy lãnh đạo, xử lý nghiêm cán bộ suy thoái. Đảng luôn hướng đến mục tiêu phát triển đất nước và nâng cao đời sống nhân dân. Điều lệ Đảng khẳng định: Đảng Cộng sản Việt Nam là đảng cầm quyền, tôn trọng và phát huy quyền làm chủ của nhân dân, chịu sự giám sát của nhân dân; dựa vào nhân dân để xây dựng Đảng; Đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam đặt lợi ích của Tổ quốc, của giai cấp công nhân và nhân dân lao động lên trên lợi ích cá nhân.

Thực tế, trên thế giới, mô hình đa đảng đang tồn tại ở khá nhiều quốc gia. Tuy nhiên, mô hình đa đảng không đồng nghĩa với dân chủ và ổn định. Nhiều quốc gia đa đảng trên thế giới rơi vào tình trạng xung đột chính trị, bất ổn xã hội, trong khi ở Việt Nam vẫn duy trì sự ổn định và phát triển mạnh mẽ. Điều này minh chứng mạnh mẽ cho vị thế lãnh đạo, cầm quyền của Đảng Cộng sản Việt Nam, bác bỏ hoàn toàn các luận điệu xuyên tạc về vị thế lãnh đạo, cầm quyền của Đảng.

Các giải pháp tăng cường đấu tranh phản bác các luận điệu xuyên tạc nền dân chủ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam

Một là, nâng cao nhận thức cho cán bộ, đảng viên và nhân dân về bản chất nền dân chủ xã hội chủ nghĩa và cảnh giác trước thông tin xuyên tạc.

Đây là biện pháp cơ bản, quan trọng của Đảng. Các đơn vị truyền thông, hệ thống chính trị và toàn xã hội cần đẩy mạnh công tác giáo dục chính trị tư tưởng, trong đó làm rõ giá trị của nền dân chủ Việt Nam, đó là nền dân chủ do nhân dân làm chủ. Tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân, mọi chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước đều thể hiện lợi ích của nhân dân. Đảng và Nhà nước gắn bó chặt chẽ với nhân dân, phục vụ nhân dân và chịu sự giám sát của nhân dân. Theo đó, tất cả cán bộ, công chức, viên chức phải tôn trọng và lắng nghe ý kiến của nhân dân, có trách nhiệm hoàn thành tốt chức trách và nhiệm vụ được nhân dân giao phó. Mọi hành vi xâm phạm quyền làm chủ của nhân dân và lợi dụng dân chủ làm tổn hại lợi ích của nhân dân và Tổ quốc đều phải được phê phán và nghiêm trị. Nhân dân là người chủ xã hội, cho nên nhân dân không chỉ có quyền, mà còn có trách nhiệm tham gia đóng góp vào quá trình hoạch định, thi hành chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước. Nhân dân thực hiện quyền làm chủ thông qua phương thức dân chủ trực tiếp và dân chủ đại diện. Dân chủ trong Đảng có ý nghĩa quyết định đối với phát triển dân chủ trong tổ chức, hoạt động của cả hệ thống chính trị, gắn với dân chủ hóa toàn bộ đời sống xã hội. Dân chủ đi liền với kỷ cương, pháp luật.

Từ đó, việc trang bị cho người dân kỹ năng nhận diện thông tin xấu độc trên không gian mạng là nhiệm vụ quan trọng. Các cơ quan chức năng, cơ quan báo chí, truyền thông, phương tiện truyền thông xã hội cần đấu tranh trực diện, thường xuyên vạch trần thông tin sai lệch, cung cấp phân tích khách quan, khoa học để phản bác các luận điệu xuyên tạc. Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức chính trị – xã hội tổ chức diễn đàn, hội thảo, tọa đàm, nâng cao hiểu biết về nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, giúp đoàn viên, hội viên, người dân nhận thức rõ âm mưu thâm độc, thông tin xấu độc trên không gian mạng của các thế lực thù địch để nâng cao tinh thần cảnh giác. Nếu nhận thức đúng đắn và có khả năng phân biệt “thật – giả”, “đúng – sai” thì người dân sẽ không dễ bị tác động bởi những thông tin sai lệch, góp phần bảo vệ, giữ vững sự ổn định chính trị và trật tự xã hội.

Hai là, phát huy vai trò của báo chí, truyền thông và phương tiện truyền thông xã hội trong đấu tranh, phản bác các luận điệu xuyên tạc.

Báo chí, truyền thông và phương tiện truyền thông xã hội đóng vai trò quan trọng trong việc vạch trần và đấu tranh, phản bác các luận điệu xuyên tạc về nền dân chủ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam. Các cơ quan báo chí cần chủ động phản ánh đầy đủ, chính xác, kịp thời về đời sống chính trị – xã hội của đất nước, nêu bật những thành tựu trong thực hiện dân chủ để bác bỏ luận điệu rằng Việt Nam “không có dân chủ” hay “chỉ là dân chủ hình thức”. Với các cơ quan báo chí lớn, như Báo Nhân Dân, Tạp chí Cộng sản, Đài Truyền hình Việt Nam, Đài Tiếng nói Việt Nam, Thông tấn xã Việt Nam, Báo Quân đội nhân dân, Báo Công an nhân dân… cần có chuyên mục chuyên sâu, chuyên đề để cung cấp thông tin chính thống, đấu tranh, phản bác các luận điệu xuyên tạc từ cơ quan báo chí truyền thông nước ngoài… hoặc tổ chức quốc tế chống phá những thành tựu về dân chủ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam.

Trên không gian mạng, các tổ chức đoàn thể, nhất là tổ chức đoàn thanh niên, hội liên hiệp thanh niên, hội sinh viên, các chuyên gia, nhà khoa học tích cực tham gia đấu tranh, đưa ra những bài viết, video phân tích, phản biện. Lực lượng dư luận viên, cộng tác viên báo chí, người có tầm ảnh hưởng trên mạng xã hội tiếp tục tận dụng các nền tảng xã hội, như Facebook, Youtube, Tiktok… để lan tỏa nội dung phản bác luận điệu xuyên tạc về bản chất của nền dân chủ xã hội chủ nghĩa dễ hiểu, súc tích, phù hợp với từng nhóm đối tượng. Đồng thời, cần có sự phối hợp chặt chẽ giữa cơ quan chức năng và cộng đồng mạng trong việc phát hiện, xử lý đối tượng cố tình tung tin sai sự thật, gây hoang mang dư luận.

Đấu tranh trực diện với các quan điểm sai trái trên không gian mạng là nhiệm vụ quan trọng, đòi hỏi sự vào cuộc của nhiều chủ thể, từ cơ quan chức năng, báo chí, truyền thông đến từng cá nhân trong xã hội; chủ động phát hiện, xử lý nghiêm đối tượng tung tin xuyên tạc thành tựu thực thi dân chủ của Việt Nam; đồng thời, thực thi nghiêm minh Luật An ninh mạng để ngăn chặn hoạt động chống phá. Các cơ quan báo chí, truyền thông, trang web của các cơ quan nghiên cứu lý luận tích cực đăng tải các bài viết, chương trình phản biện, vạch trần thủ đoạn của các thế lực thù địch. Các tổ chức chính trị – xã hội khuyến khích đoàn viên, hội viên, giới trẻ tham gia đấu tranh, phản bác các luận điệu sai trái bằng cách cung cấp thông tin chính xác, lập luận thuyết phục trên mạng xã hội. Mỗi cá nhân, đặc biệt là đội ngũ làm công tác lý luận, chuyên gia, cần chủ động sử dụng tiếng nói của mình để bảo vệ sự thật, không để thông tin xấu độc làm ảnh hưởng đến niềm tin của nhân dân với Đảng Cộng sản Việt Nam, Nhà nước Việt Nam xã hội chủ nghĩa.

Ba là, hoàn thiện hệ thống pháp luật, tăng cường thực thi pháp luật để bảo vệ nền dân chủ xã hội chủ nghĩa.

Cùng với các biện pháp trên, việc hoàn thiện và thực thi pháp luật nghiêm minh là biện pháp quan trọng để ngăn chặn, xử lý hành vi xuyên tạc, chống phá thành tựu của Việt Nam trong việc thực thi dân chủ xã hội chủ nghĩa. Quốc hội, Chính phủ và cơ quan chức năng cần tiếp tục rà soát, bổ sung quy định pháp luật, nhằm bảo vệ quyền làm chủ của nhân dân và xử lý nghiêm hành vi lợi dụng quyền tự do dân chủ chống phá Đảng, Nhà nước, chế độ xã hội chủ nghĩa. Luật An ninh mạng, Luật An toàn thông tin mạng, Luật Báo chí, Luật Tín ngưỡng, Tôn giáo… đã ngăn chặn hiệu quả hành vi lợi dụng quyền tự do dân chủ để xuyên tạc, kích động chống phá, nhưng cần tiếp tục được bổ sung, hoàn thiện để bảo đảm sự thống nhất của hệ thống văn bản pháp luật, tạo môi trường thông tin lành mạnh.

Các cơ quan có thẩm quyền cần phối hợp xử lý nghiêm minh cá nhân, tổ chức cố tình lợi dụng quyền tự do dân chủ để gây rối, bôi nhọ chính quyền, xuyên tạc chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước. Việc xét xử đối tượng có hành vi chống phá cho thấy rõ hành vi vi phạm pháp luật ở Việt Nam sẽ bị xử lý nghiêm minh. Việc thực thi pháp luật nghiêm minh không chỉ giúp bảo vệ nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, mà còn tạo ra môi trường chính trị ổn định, thuận lợi cho sự phát triển của đất nước.

Bốn là, phát huy vai trò của hệ thống chính trị, đặc biệt là Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức chính trị – xã hội.

Mặt trận Tổ quốc Việt Nam cần tiếp tục thực hiện tốt quyền và trách nhiệm về giám sát, phản biện xã hội. Các tổ chức chính trị – xã hội tiếp tục tổ chức nhiều diễn đàn để lắng nghe đoàn viên, hội viên, người dân phản ánh tâm tư, nguyện vọng của mình; đồng thời, nhận diện rõ các luận điệu xuyên tạc và tích cực đấu tranh trên không gian mạng. Chính quyền các cấp cần tăng cường đối thoại với nhân dân, kịp thời giải quyết các “điểm nóng”, không để các thế lực thù địch lợi dụng, kích động.

Nền dân chủ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam là mô hình phù hợp với thực tiễn đất nước, bảo đảm quyền làm chủ của nhân dân trên mọi lĩnh vực của đời sống. Đây không chỉ là thành quả cách mạng, mà còn là nền tảng vững chắc để xây dựng một xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Tuy nhiên, để bảo vệ và phát huy giá trị của nền dân chủ, mỗi cá nhân và tổ chức cần nâng cao trách nhiệm, chủ động đấu tranh phòng, chống các luận điệu sai trái, xuyên tạc của các thế lực thù địch, nhằm phá hoại khối đại đoàn kết toàn dân tộc. Sự thống nhất, đồng lòng của toàn xã hội chính là động lực quan trọng để giữ vững thành quả cách mạng, bảo vệ độc lập, chủ quyền, thúc đẩy sự phát triển nhanh và bền vững, đưa đất nước bước vào kỷ nguyên mới, kỷ nguyên vươn mình của dân tộc Việt Nam./.

Sưu tầm 

FACEBOOK
Ý KIẾN BẠN ĐỌC
Theo dõi
Notify of
guest
0 Góp ý
Inline Feedbacks
View all comments